Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ lây lan thành dịch, đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Bệnh thường gặp vào mùa đông - xuân. Mầm bệnh quai bị là virus thuộc họ myxovirus. Nguồn lây bệnh quai bị là người đang mắc bệnh quai bị. Đường lây truyền bệnh là không khí qua đường hô hấp. Bệnh có một số biến chứng nguy hiểm.
Biểu hiện của bệnh quai bị
Bệnh quai bị gặp chủ yếu là viêm tuyến
nước bọt (tuyến mang tai). Kể từ khi virus quai bị vào cơ thể cho đến
khi có triệu chứng lâm sàng đầu tiên thời gian kéo dài khoảng từ vài ba
tuần lễ. Giai đoạn này người ta gọi là thời kỳ nung bệnh. Bệnh xuất hiện
sốt cao đột ngột, đau đầu, mệt mỏi toàn thân, ăn ngủ kém. Với các triệu
chứng này ở giai đoạn tiên phát có thể nhầm với một số bệnh khác.
Sau khi sốt cao từ 1 đến 3 ngày thì
tuyến nước bọt bị sưng to. Đầu tiên là sưng một bên, sau vài ngày tiếp
tục sưng tuyến nước bọt còn lại. Đặc điểm của sưng tuyến nước bọt là
sưng 2 bên thường không đối xứng (có nghĩa một bên sưng to, một bên nhỏ
hơn). Tuyến nước bọt có khi sưng lên rất to làm cằm, cổ bạnh ra làm biến
dạng cả mặt. Da vùng tuyến nước bọt sưng, căng, bóng, không đỏ, sờ vào
vùng da đó thấy nóng và bệnh nhân kêu đau. Người ta thường quan sát 3
điểm đau điển hình của bệnh quai bị trong dấu hiệu viêm tuyến nước bọt
là góc thái dương-hàm, điểm mỏm xương chũm và góc xương hàm dưới. Nhiều
bệnh nhân vì đau mà gây nên khó nhai, khó nuốt. Triệu chứng sốt thường
kéo dài trong vòng 10 ngày, sau khi hết sốt thì hiện tượng sưng tuyến
nước bọt cũng giảm dần. Hậu quả của viêm tuyến nước bọt do virus quai bị
là không bị hóa mủ (trừ khi có bội nhiễm thêm vi khuẩn khác), đây là
một đặc điểm nên lưu ý trong chẩn đoán bệnh quai bị.
Các bộ phận có thể bị tổn thương
Virus quai bị có thể gây tổn thương
nhiều cơ quan của cơ thể, nhưng bộ phận đánh lo ngại nhất của bệnh quai
bị là gây viêm tinh hoàn cho nam giới. Viêm tinh hoàn do virus quai bị
thường hay gặp nhất ở lứa tuổi đang dậy thì và cả lứa tuổi trưởng thành
(thanh thiếu niên). Tỷ lệ bị viêm tinh hoàn còn tùy thuộc vào từng vụ
dịch (tức là phụ thuộc vào độc lực của virus), tình trạng sức đề kháng
của cơ thể. Có một số tác giả cho rằng khoảng từ 10 đến 30% có kèm theo
viêm tinh hoàn. Đặc điểm của viêm tinh hoàn thường xảy ra một bên. Tỷ lệ
viêm tinh hoàn 2 bên ít hơn. Sau khi viêm tuyến nước bọt từ 5 đến 7
ngày thì xuất hiện viêm tinh hoàn. Bệnh nhân thấy xuất hiện sốt trở lại,
đôi khi nhiệt độ còn tăng hơn lúc ban đầu của viêm tuyến nước bọt. Tinh
hoàn sưng to, đau. Sờ vào tinh hoàn thấy chắc. Da bìu bị phù nề rõ rệt,
căng, bóng, đỏ.
Ngoài ra người ta còn thấy kèm theo có
viêm mào, thừng tinh hoàn, thậm chí xuất hiện tràn dịch màng tinh hoàn
trong những trường hợp bệnh nặng. Bệnh kéo dài từ 3-4 tuần lễ sau đó mới
hết sưng, đau hẳn. Điều đáng lo ngại nhất của viêm tinh hoàn là có gây
hậu quả teo tinh hoàn hay không? Muốn biết có bị teo tinh hoàn hay không
phải theo dõi một thời gian dài khoảng vài tháng mới có thể biết chắc
chắn. Cũng không nên lo lắng quá về bệnh của mình bởi vì tỷ lệ teo tinh
hoàn do virus quai bị gây ra rất thấp, cũng chỉ khoảng 5%. Nếu teo tinh
hoàn một bên thì mọi chức năng của tinh hoàn vẫn hoạt động bình thường,
nhưng khi đã bị teo cả 2 bên tinh hoàn thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động sinh dục và sinh sản.
Ngoài biến chứng viêm tinh hoàn ở nam
giới thì nữ giới khi bị quai bị cũng có thể bị viêm buồng trứng tuy rằng
tỷ lệ thấp. Viêm tụy, viêm não, màng não cũng có thể gặp trong bệnh
quai bị nhưng không nhiều. Mặc dù những bệnh này gặp trong viêm quai bị
là thấp nhưng rất nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng.
Khi bị bệnh quai bị nên làm gì?
Khi nghi là bị bệnh quai bị nên đi
khám bác sĩ để được chẩn đoán chính xác, từ đây sẽ được chỉ định điều
trị và có những tư vấn rất quan trọng, trong đó bao gồm cho bản thân
người bệnh và cả bảo vệ cho người lành có nguy cơ mắc bệnh quai bị.
Đối với thể bệnh viêm tuyến nước bọt
đơn thuần cần vệ sinh họng, miệng hàng ngày như súc họng, miệng bằng các
dung dịch sát khuẩn nhẹ có bán tại các quầy dược phẩm như axit boric
5%, nước muối sinh lý và một số dung dịch sát khuẩn khác. Hạ nhiệt, giảm
đau, chống viêm, sinh tố, uống nhiều nước vì sốt làm mất nước, điện
giải. Cần nghỉ ngơi tại giường tránh tiếp xúc với những người có nguy cơ
cao mắc bệnh quai bị như lứa tuổi thanh thiếu niên, tối thiểu 10 ngày.
Đối với thể bệnh có viêm tinh hoàn cần
nghỉ ngơi tại giường khi tinh hoàn vẫn còn sưng, đau. Cần thiết mặc đồ
lót để treo nhẹ tinh hoàn lên. Đối với thể bệnh có viêm tinh hoàn, buồng
trứng, rất cần có ý kiến của bác sĩ. Những bệnh viêm tụy, viêm não,
màng não cần phải vào bệnh viện để được khám và theo dõi một cách chặt
chẽ. Mặc dù hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh quai bị,
đó là một thách thức lớn cho các thầy thuốc lâm sàng, nhưng các thuốc
dùng trong mục đích điều trị hỗ trợ cũng không thể coi thường.
Nguyên tắc phòng bệnh quai bị
Cần cách ly người bệnh ít nhất 10 ngày
không tiếp xúc với đối tượng có nguy cơ cao như lứa tuổi thanh thiếu
niên. Người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân cần đeo khẩu trang y tế
đúng tiêu chuẩn để hạn chế đến mức tối đa virus lây sang người chăm sóc,
từ đó lây cho người lành khác.
Đối với đối tượng có nguy cơ cao cần
tiêm vacxin phòng bệnh. Đây là biện pháp có hữu hiệu nhất hiện nay để
tạo cho cơ thể có đủ kháng thể đặc hiệu chống lại virus quai bị một cách
chủ động, mỗi khi chúng xâm nhập vào cơ thể.
0 nhận xét :
Đăng nhận xét