Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa bệnh quai bị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chữa bệnh quai bị. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Bật mí cách chữa bệnh quai bị bằng thực phẩm cực kỳ hiệu quả - Bệnh quai bị và biến chứng của nó rất nguy hiểm. Bạn có biết thực phẩm hàng ngày có thể phòng tránh và chữa bệnh quai bị?

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Phương pháp chữa bệnh quai bị ngay tại nhà cực kỳ hiệu quả - Bệnh quai bị nếu để lâu sẽ gây biến chứng nghiêm trọng tới sức khỏe như viêm màng não,  vô sinh. Do đó khamchuabenh.info xin chia sẻ với các bạn cách chữa bệnh quai bị tại nhà hiệu quả.

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Mách mẹo cách chữa bệnh quai bị bằng kinh nghiệm dân gian cực kỳ hiệu quả - Quai bị  là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây nên biểu hiện bằng triệu chứng phát sốt, sưng đau tuyến mang tai một hoặc cả hai bên, nhai và nuốt khó khăn, mệt mỏi có thể kèm theo viêm đau tinh hoàn và buồng trứng.


Bệnh quai bị ở trẻ em
Một số kinh nghiệm dân gian chữa bệnh quai bị:
1. Thuốc bôi ngoài
- Giấm chua + tỏi giã nát bôi lên tổn thương mỗi ngày 2 - 3 lần
- Bột mỳ + hạt tiêu trộn với nước bôi lên nơi sưng mỗi ngày thay thuốc 1 lần.
2. Món ăn bài thuốc
- Đậu xanh 100g + đậu tương 50g + đường trắng  ninh nhừ hai loại đậu rồi đường vào khuấy đều chia ăn 2 -3 lần trong ngày
- Khổ qua 200g bỏ ruột thái miếng rồi chế thành các món ăn, ăn trong vài ngày.
Chữa bệnh quai bị
Khổ qua có tác dụng chữa bệnh quai bị
Lưu ý khi bị bệnh quai bị
- Nên ở nhà để tránh lây nhiễm người khác.
- Có thể chườm đá lạnh để tránh đau nhức.
- Nên đi khám bác sĩ nếu cơn đau nhức, sưng ở cổ và sốt không thuyên giảm trong vòng 7 ngày.
Phòng bệnh quai bị
Chườm đá lạnh để tránh đau nhức
Xuân Đại 

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Quai bị là bệnh nhiễm khuẩn do Myxo virus gây ra. Lây truyền qua nước bọt và nước tiểu của người bệnh. Bệnh phổ biến ở trẻ 3 – 14 tuổi, thường 5 – 9 tuổi và thanh niên 18 – 20 tuổi. Miễn dịch sau khi bị bệnh quai bị khá bền vững. Biến chứng do bệnh quai bị ít, tuy nhiên rất nặng nề. Có thể gây vô sinh đối với bé trai sau này vo viêm tinh hoàn, gây đái tháo đường do vi6em tụy kéo dài.

Triệu chứng lâm sàng: thời gian ủ bệnh từ 15 – 21 ngày, virút phát triển ở niêm mạc miệng sau đó xâm nhập vào máu gây viêm các cơ quan.
Viêm tuyến mang tai: là có thể thường nhất và điển hình nhất, trẻ sốt 380C – 390C, nhức đầu, mệt mỏi, ăn ngủ kém; viêm sưng tuyến mang tai, da căng phồng lên, không đỏ, đau, miệng khô và khó nuốt. Có khi viêm cả tuyến nước bọt dưới hàm, dưới lưỡi, nên mặt bạnh ra, nước bọt ít và quánh. Sau 4 – 5 ngày hết sốt, sưng đau, giảm dần và khỏi.
Viêm tinh hoàn: hay gặp ở tuổi thanh niên (20% -30% các ca), thường xảy ra vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 8 sau khi viêm tuyến mang tai. Sốt cao trở lại, tinh hoàn sưng tấy, đỏ, bìu căng co khi kéo dài cả tuần. Sau 2 – 6 tháng tinh hoàn bị viêm nhỏ hơn bình thường.
Xử trí: mặc quần áo chặt để treo tinh hoàn, chườm nóng; nằm nghỉ từ 5 – 7 ngày; dùng Prednisolone 1 – 2mg/kg/ngày trong 7 – 10 ngày, vitamine E từ 1 – 2 tháng để tạo khả năng tinh trùng sau viêm.
Viêm buồng trứng: chỉ gặp ở phụ nữ dậy thì, sốt, đau bụng dưới có thể xuất huyết tử cung nhẹ trong vài ngày.
Viêm tụy cấp: thường chỉ gặp ở người lớn, rất hiếm ở trẻ em, sốt, đau bụng cấp, tiêu chảy, biếng ăn.
Xử trí: ăn thức ăn lỏng, truyền Dextrose 10%, giảm đau bằng Atropine.
Viêm não – màng não: sốt 380C – 390C kèm theo rét run; có dấu hiệu màng não (nhức đầu, nôn ói, ly bì, cổ gượng); có thể co giật, hôn mê.
            Để dự phòng bệnh này cần cách ly bệnh nhi tại nhà từ 9 – 10 ngày, người tiếp xúc nên đeo khẩu trang. Nằm nghỉ trong giai đoạn viêm cấp để đề phòng biến chứng, tiêm vắc-xin MMR nấu có (Measles-mumps-Rubella) cho trẻ 12 – 15 tháng và lập lại lúc 4 tuổi.

Vấn đề vô sinh là vấn đề nan giải của mọi thế hệ. Không kể đến các căn bệnh phức tạp, ngay cả những bệnh thông thường như quai bị cũng có thể dẫn đến vô sinh.

 

Bệnh quai bị là gì?
Bệnh quai bị là một bệnh lý toàn thân, cấp tính do nhiễm virus và dễ lây lan. Bệnh quai bị thường mắc ở trẻ em. Tuy vaccin chủng ngừa đã phổ biến, nhưng hiện nay trên thế giới, người ta vẫn thấy khoảng 50% quai bị xuất hiện ở người lớn trẻ tuổi. Khi đã mắc bệnh hoặc đã được chủng ngừa, hầu hết sẽ miễn dịch đối với bệnh quai bị.

Diễn biến của bệnh và vấn đề vô sinh:
Biểu hiện rõ nhất của bệnh là sốt và sưng một hoặc cả hai bên tuyến mang tai. Ngoài tuyến mang tai, một số cơ quan khác cũng có thể bị viêm đồng thời như: tuyến nước bọt, màng não, tuyến sinh dục (tinh hoàn hoặc buồng trứng).

Ngoài ra, viêm tinh hoàn là biến chứng thường gặp nhất của bệnh quai bị ở nam giới sau tuổi dậy thì. Tỉ lệ có biến chứng viêm tinh hoàn từ 20-35%. Khi bị viêm, tinh hoàn đau và sưng to, thường kèm với sốt. Sau đó, quá trình teo tinh hoàn sẽ diễn tiến từ khoảng 50% ở những bệnh nhân này. Trong các trường hợp còn lại, quá trình sinh tinh có thể trở về bình thường. Viêm buồng trứng ở phụ nữ bị quai bị rất hiếm gặp và ít ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Quá trình teo tinh hoàn sẽ diễn tiến trong vòng 1-6 tháng sau đợt viêm cấp tính. Quá trình sinh tinh sẽ giảm dần và có thể mất hẳn. Teo mô tinh hoàn có thể do tác động trực tiếp của virus hoặc thứ phát do thiếu máu cục bộ trong quá trình mô bị viêm, phù. Nếu bị viêm cả hai bên tinh hoàn (khoảng 15%), sẽ dẫn đến vô sinh hoàn toàn.
Tóm lại, nam giới sau tuổi dậy thì khi bị quai bị cần chú ý đến biến chứng viêm tinh hoàn. Quai bị có kèm viêm tinh hoàn có nhiều khả năng sẽ dẫn đến vô sinh, đặc biệt nếu viêm cả 2 tinh hoàn. Vì quá trình teo tinh hoàn sẽ diễn tiến từ từ sau đợt viêm cấp tính, để duy trì khả năng sinh sản, có thể đến các trung tâm điều trị vô sinh để xin trữ lạnh tinh trùng khi chất lượng tinh trùng chưa giảm nhiều. Lưu trữ tinh trùng dự phòng trong những trường hợp quai bị nên được thực hiện ở thanh niên chưa lập gia đình hoặc chưa có con.

Vì hai “trái bóng” hoạt động độc lập với nhau, một bên trục trặc cũng không ảnh hưởng tới bên kia.


Chào bác sĩ. Một năm trước cháu bị teo 1 bên tinh hoàn do biến chứng bệnh quai bị. Đến giờ bên tinh hoàn bị teo có kích thước nhỏ bằng 1 nửa bên lành. Mỗi lần xuất tinh cháu thấy số lượng ít hơn trước khi bị biến chứng. Năm nay cháu 20 tuổi, chưa có gia đình nên cháu rất lo ảnh hưởng tới sau này.
(niemdautumoitinhdau...@yahoo.com.vn)
Ảnh minh họa
Trả lời

Bạn lo là đúng vì ai cũng sợ sau này không có con, nhất là trong trường hợp như của bạn, bị quai bị lại bị biến chứng teo một bên tinh hoàn.

Rất may, ở các bạn trai tinh hoàn hai bên nằm trong bìu độc lập với nhau, một bên bị “trục trặc”, bên kia bình thường thì chức năng sinh sản của bạn vẫn ổn mà. Đúng như trường hợp của bạn, khi bị teo "một bên", lượng tinh dịch ít hơn lúc chưa bị. Tuy nhiên, khả năng có con vẫn không bị ảnh hưởng nhé!

Bây giờ chuyện cũng đã rồi, bạn nên luyện tập, tăng cường sức khỏe để có cơ thể khỏe mạnh nhé. Phải có kiến thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, quan hệ tình dục an toàn, phòng các bệnh lây truyền qua đường tinh dục, bệnh lý hệ tiết niệu, không quan hệ tình dục với đối tượng có nguy cơ cao… có như vậy mới giữ cho bên còn lại “khỏe”, không bị viêm nhiễm và sẽ không ảnh hưởng gì tới tương lai. Và bạn cần nhớ quan hệ tình dục điều độ, hợp lý cũng là cách giữ gìn cậu bé được an toàn!

Quai bị có thể gây nên một số biến chứng ảnh hưởng tới sức khoẻ sau này của người bệnh. Nhận biết sớm các biểu hiện để xử lý kịp thời có thể tránh được hậu quả đáng tiếc xảy ra.

 

1. Biến chứng viêm não - viêm màng não

Xảy ra bất chợt và dữ dội, thường vào ngày thứ 3 - 10 sau khi viêm tuyến mang tai. Người bệnh sốt cao, nhữ đầu, ói mửa, đôi khi co giật, gáy cứng, rối loạn tri giác hoặc có biểu hiện rối loạn thần kinh sọ.

Số đông người bệnh nhẹ có thể hồi phục hoàn toàn do diễn biến của viêm não và màng não là lành tính. Còn nếu bị nặng, sẽ ngất và hôn mê. Cần phải có sự can thiệp ngay của các bác sĩ.

2. Biến chứng viêm tinh hoàn

Đây là biến chứng thường gặp nhất, đặc biệt ở bé trai tuổi dậy thì và thanh niên. Biến chứng xảy ra sau 7 - 10 ngày viêm tuyến mang tai, cũng có khi cùng lúc. Người bệnh đột nhiên sốt cao 40 - 41 độ C, lạnh run, nhức đầu, mê sảng, ói mửa, đau bụng, tinh hoàn sưng to, đau nhữ nhưng không làm mủ. Tình trạng này kéo dài khoảng 1 tuần thì giảm.

Phần lớn các bệnh nhân viêm tinh hoàn một bên, vài tháng sau chức năng của tinh hoàn bị viêm được phục hồi. Chỉ khi 2 tinh hoàn cùng viêm và teo, người bệnh sẽ mất khả năng sản xuất tinh trùng và không có con. Nếu viêm tinh hoàn bên phải, người bệnh còn có thể bị đau ruột thừa.

3. Biến chứng viêm tuỵ tạng cấp

Biến chứng này ít gặp, thường xuất hiện vào ngày thứ 3 đến ngày thứ 7 sau khi viêm tuyến mang tai, người bệnh sốt cao, đau bụng, nôn, truỵ mạch. Diễn biến của viêm tuỵ tạng cấp khá lành tính. Người bệnh chỉ cần được nghỉ ngơi, uống thuốc hạ sốt, giảm đau là có thể hồi phục sau 2 tuần.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Bệnh quai bị nguy hiểm như thế nào, có thuốc điều trị không và làm sao để phòng ngừa căn bệnh này?
Chị Lê Ngọc Anh
(Cầu Giấy)

Quai bị là bệnh nhiễm khuẩn cấp do virus gây ra. Theo thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ mắc bệnh quai bị ở nước ta là 47 ca mắc/100.000 người. Bệnh lây theo đường hô hấp, qua bụi, nước và hơi thở truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành. Thời gian ủ bệnh thường từ 15 đến 25 ngày với các triệu chứng không rõ ràng như sốt, đau đầu, mệt mỏi, chán ăn, đau cơ… Bệnh này không gây tử vong nhưng có thể để lại nhiều di chứng như viêm tuyến mang tai, viêm tinh hoàn (đối với bệnh nhân nam), viêm vú, viêm buồng trứng (đối với nữ), viêm hạch tiết nhầy hoặc gây viêm tụy, màng não, viêm đa khớp, tuyến giáp, não…
Hiện không có thuốc đặc trị bệnh này (thuốc kháng sinh cũng không có tác dụng), chủ yếu điều trị bệnh theo cơ chế và triệu chứng. Cụ thể, để chống viêm tinh hoàn thì người bệnh có thể chườm nóng tinh hoàn, nằm nghỉ trong thời gian đau (5 - 7 ngày) và dùng một ít thuốc chống viêm, giảm đau; để chống viêm tuyến nước bọt thì chườm nóng vùng hàm, xúc miệng bằng nước sát trùng, ngậm chanh, ăn thức ăn lỏng trong những ngày đau và cách ly bệnh nhân tối thiểu trong vòng 9 ngày. Để chống viêm tụy, nên ăn hạn chế và không nên ăn ngon; để chống viêm não, bác sỹ điều trị dùng Corticoide truyền tĩnh mạch chọc dịch não...
Cách phòng lây nhiễm là cách ly người bệnh, khi người lành tiếp xúc với bệnh nhân thì phải đeo khẩu trang; mọi người nên tiêm vắc xin phòng bệnh (đối với trẻ thì tiêm sau 15 tháng tuổi).

Quai bị tuy không đe dọa đến tính mạng nhưng gây nhiều biến chứng nguy hiểm, để lại hậu quả nặng nề. Điều đáng tiếc là, rất nhiều người lại có những suy nghĩ sai lầm về căn bệnh này.

 

Nam giới mắc quai bị là vô sinh

Rất nhiều người cho rằng, nam giới mắc quai bị sẽ mất khả năng sinh con. Chính vì vậy, không ít nạn nhân vì tai tiếng bị quai bị mà khó lấy vợ.

Anh Hưng ở Sóc Sơn, Hà Nội là một trường hợp điển hình rơi vào hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Năm 27 tuổi, dự định cuối năm cưới vợ nhưng đầu hè anh đột nhiên anh bị sưng mang tai bên phải nhưng nghĩ rằng viêm tuyến nước bọt bình thường, dán cao dán vài ngày sẽ khỏi nên anh không đến bác sĩ kiểm tra.

Dán cao 4 ngày, đến nỗi vết dán phồng rộp vì nóng nhưng chỗ sưng không những không giảm chút nào mà người anh bắt đầu có dấu hiệu sốt nhẹ. Nhưng anh vẫn mua thuốc về uống rồi "đánh liều" ở nhà thêm vài ngày, đến khi sốt cao anh mới đến bệnh viện huyện khám. Bác sĩ cho biết, anh bị quai bị có dấu hiệu biến chứng nên chuyển lên tuyến trên.

Chuyển ra bệnh viện tuyến trung ương, cũng may chưa xảy ra biến chứng gì, điều trị mấy ngày sau thì anh khỏi bệnh. Hay tin anh bị quai bị, gia đình bạn gái kịch liệt phản đối chuyện cưới hỏi vì nghĩ anh bị quai bị và phải chuyển viện như vậy thì sẽ không còn khả năng sinh con. Nghe lời gia đình, bạn gái anh quyết định chia tay. Biết khó lấy vợ làng vì tai tiếng kia, anh rời quê đi làm ăn rồi quen một cô gái tỉnh xa. Sau hai năm, anh kết hôn và vẫn có được bé trai đầu lòng.

Phó giáo sư Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai cho biết, quai bị là bệnh bệnh lành tính, tỷ lệ biến chứng rất thấp, chỉ chiếm 1/1000. Nam giới có thể gặp biến chứng viêm tinh hoàn sau khi sưng tuyến mang tai từ 7-10 ngày, không điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng đến ống dẫn tinh có thể gây vô sinh. Tuy nhiên, bác sĩ Dũng cũng khẳng định không phải ai bị viêm tinh hoàn cũng dẫn đến vô sinh. Như bệnh nhân trên cũng bị quai bị, nhưng vẫn có thể có con.
Bệnh không tìm đến người lớn

Một suy nghĩ sai lầm nữa là quai bị chỉ xuất hiện ở trẻ nhỏ, tuổi vị thành niên, trưởng thành rồi thì miễn dịch hoàn toàn nên không cần có ý thức phòng bệnh. Thực tế, bệnh này có thể gặp ở bất kì đối tượng nào và ở các độ tuổi. Người lớn cũng có thể bị mắc bệnh nếu không tiêm ngừa phòng bệnh trước đó. 

Như trường hợp bệnh nhân Hưng ở trên, dù đã 27 tuổi nhưng anh vẫn bị quai bị. Cũng may anh đến viện xử lý kịp thời nên tránh được những hậu quả đáng tiếc. Ngoài anh Hưng, rất nhiều người lớn khác cũng từng bị bệnh nhưng vì suy nghĩ sai lầm mà chậm trễ việc điều trị dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.

Vì suy nghĩ sai lầm này mà không ít bệnh nhân đến viện đều trong tình trạng bệnh đã nặng, để xảy ra biến chứng như viêm tụy cấp, viêm não, người thì viêm tinh hoàn, viêm buồng trứng ở phụ nữ... Lúc này việc điều trị gặp rất nhiều khó khăn, vừa mất thời gian lại tốn kém và phải theo dõi biến chứng trong vòng 5 năm.

Bác sĩ Dũng khuyến cáo quai bị một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do một loại siêu vi thuộc họ Paramyxoviridae gây ra và rất dễ lây qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt bệnh nhân. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ từ 3 tuổi trở lên, đặc biệt là trẻ ở tuổi học đường 5-6 tuổi. Biện pháp phòng bệnh tốt nhất là tiêm văcxin.

Bác sĩ Dũng cũng lưu ý, với những trẻ bị suy giảm miễn dịch như đang dùng corticoid, bị thận hư, khớp... nguy cơ bị biến chứng cao hơn nên bố mẹ cần chú ý theo dõi để đưa con đến viện kịp thời tránh những hậu quả đáng tiếc. Đặc biệt, không nên bôi hoặc đắp những thứ thuốc dân gian như bôi vôi, bã trầu hoặc châm chọc ở tuyến mang tai...  để tránh tình trạng nhiễm trùng và bệnh nặng thêm.

Người bệnh nên đến cơ sở y tế để được khám và điều trị đúng cách. Với trường hợp viêm tuyến mang tai không biến chứng thì nên nằm nghỉ nhiều. Người bệnh cần giữ ấm vùng tuyến mang tai, chăm sóc răng miệng, ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu và nhiều chất dinh dưỡng để tăng sức đề kháng cho cơ thể. Trong trường hợp có biến chứng viêm tinh hoàn thì nên mặc quần lót nâng dịch hoàn để giảm đau nhức.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Trong dân gian người ta thường hay truyền miệng là bệnh quai bị gây vô sinh, đặc biệt là với nam giới. Điều này làm không ít quý ông trưởng thành lo lắng. Vậy thực hư của lời truyền miệng này là như thế nào?


Đối tượng mắc bệnh quai bị


Tuổi nào cũng có thể bị bệnh quai bị, khả năng mắc bệnh ở nam cao hơn nữ. Hơn 80% bệnh xảy ra ở trẻ em dưới 15 tuổi, thường gặp nhất là trẻ từ 6 - 10 tuổi.

Người lớn cũng có thể bị mắc bệnh nếu không tiêm ngừa phòng bệnh trước đó. Khảo sát huyết thanh cho thấy gần 90% người lớn có phản ứng huyết thanh xác định đã bị nhiễm siêu vi quai bị từ trước

Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp do nước bọt bị nhiễm trùng khi người bệnh nói chuyện, ho hoặc hắt hơi.

Nước bọt của người bị bệnh quai bị có thể lây lan cho người khác 1 tuần trước khi sưng tuyến mang tai và kéo dài 2 tuần sau khi thấy sưng tuyến mang tai. Thời gian lây mạnh nhất vào khoảng 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai.

Bệnh rất dễ lây và cho miễn dịch bền vững sau khi khỏi bệnh (không mắc lại bệnh lần 2).

Bệnh quai bị có gây vô sinh hay không?




Nói chung, bệnh quai bị có diễn biến lành tính, các triệu chứng thoái lui trong vòng khoảng 10 ngày và không để lại di chứng gì.

Nhưng đối với bệnh nhân lớn tuổi thường cường độ các triệu chứng toàn thân (sốt, đau đầu…) tăng hơn, các biến chứng hay gặp hơn và thường có thể để lại hậu quả xấu. Tỷ lệ tử vong do quai bị rất thấp (1/10000 trường hợp mắc). Biến chứng thường gặp:

-  Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Có tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì. Biến chứng này thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời. Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thừng.

Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 1/2 trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng và vô sinh.

- Trong dân gian, thường hay truyền miệng là bệnh quai bị gây vô sinh, nhưng thực tế không hoàn toàn đúng như vậy.

Không phải trường hợp nào cũng có biến chứng viêm tinh hoàn. Nếu có biến chứng viêm tinh hoàn mà được điều trị kịp thời và đúng cách thì bệnh cũng khỏi không gây di chứng vô sinh. Dù có biến chứng viêm tinh hoàn gây teo, nhưng chưa chắc đã bị teo cả hai bên, vì vậy vẫn có thể có con.




Trong trường hợp nặng biến chứng viêm tinh hoàn không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách gây teo cả hai tinh hoàn,  gây vô sinh.

Những biến chứng khác thường gặp của bệnh quai bị

- Nhồi máu phổi: Là tình trạng có vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.

-  Viêm buồng trứng: Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh.

- Viêm tụy: Có tỷ lệ 3%-7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, ói, có khi tụt huyết áp.

-  Các tổn thương thần kinh:

* Viêm não: Có tỷ lệ 0,5%. Bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy.

* Tổn thương thần kinh sọ não: Dẫn đến điếc, mù.





* Viêm tủy sống cắt ngang.

* Viêm đa rễ thần kinh.

- Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng.

- Bị quai bị trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.

Quai bị là một loại viêm tuyến nước bọt mang tai do một loại virus, lây lan qua đường hô hấp. Virus có ái tính đặc biệt với tuyến nước bọt, tinh hoàn và hệ thần kinh. Bệnh thường gặp ở trẻ nam tuổi từ 5-15.

 

Triệu chứng

Giống như tất cả các bệnh do virus khác, khi bị nhiễm bệnh, bệnh nhân sốt cao có thể lên đến 40o, đau và sưng (không đỏ) một hoặc hai bên góc hàm. Sau 7-10 ngày các triệu chứng thuyên giảm dần và khỏi bệnh. ở một số trường hợp đặc biệt có thể kèm luôn viêm tinh hoàn.
Viêm tinh hoàn chỉ là một trong những biến chứng hay sảy ra nhất của quai bị. Sau 7-10 ngày, bệnh quai bị đã thuyên giảm, đột nhiên bệnh nhân lại sốt cao 39-40o, tinh hoàn một hoặc hai bên sưng nóng đỏ đau. Sau khoảng 10 ngày triệu chứng này cũng thuyên giảm và khỏi.

Chẩn đoán

Bệnh nhi nhất là nam giới, sốt cao, một hoặc hai bên góc hàm sưng, đau, khó nhai và nuốt, đặc biệt là có sưng nóng đỏ đau tinh hoàn một hoặc hai bên thì chắc chắn là bị quai bị. Ngoài ra cũng gặp quai bị ở trẻ nữ, nhưng nói chung hiếm và cũng gây biến chứng viêm buồng trứng.
Xét nghiệm: không có xét nghiệm đặc hiệu nào.
Ðiều trị: trong thời gian bị bệnh phải:
  • Nằm nghỉ, đặc biệt khi có sưng tinh hoàn thì phải nghỉ tuyệt đối.
  • Chườm nóng vùng góc hàm.
  • Dùng thuốc hạ sốt, an thần, giảm đau.
  • Súc miệng nước muối hoặc các chất sát trùng khác.
  • Ăn nhẹ.
  • Nếu có biến chứng viêm tinh hoàn có thể dùng corticoid.
  • Ðặc biệt phải cách ly bệnh nhân, vì rất hay lây.

Biến chứng

Thường gặp nhất là viêm tinh hoàn, ngoài ra một số trường hợp hiếm có biến chứng viêm màng não, viêm não, viêm tụy tạng.
Trong dân gian, thường hay truyền miệng là bệnh quai bị gây vô sinh, nhưng thực tế không hoàn toàn đúng như vậy. Vì:
  • Không phải trường hợp nào cũng có biến chứng viêm tinh hoàn.
  • Nếu có biến chứng viêm tinh hoàn mà được điều trị kịp thời và đúng cách thì bệnh cũng khỏi không gây di chứng vô sinh.
  • Dù có biến chứng viêm tinh hoàn gây teo, nhưng chưa chắc đã bị teo cả hai bên, vì vậy vẫn có thể có con. Trong trường hợp nặng biến chứng viêm tinh hoàn không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách gây teo cả hai tinh hoàn, gây vô sinh.

Con trai tôi cháu được 2 tuổi, hôm qua bi xưng ỏ cơ, phần dưới tai rất to. Tôi nghi ngờ cháu bị quai bị. Vậy cho tôi hỏi những dấu hiệu của bệnh quai bị là gì và tình trạng cháu nhà tôi như thế nào?

Bệnh quai bị là một bệnh cấp tính, gây dịch do virut gây bệnh quai bị, có ác tính đặc biệt với hệ thống thần kinh, tuyến nước bọt, tinh hoàn, buồng trứng, tuỵ, và có thể gây viêm màng não.
Mầm bệnh: Là virút lây truyền qua đường hô hấp. Thời gian ủ bệnh thường 18 – 21 ngày. tồn tại trong nước bọt bệnh  nhân 1 ngày trước khi sưng tuyến mạng tai, và tồn tại tiếp trong vòng 6 ngày.
Dịch thường xuất hiện vào mùa hè nơi đông đúc, nhất là tuổi từ 5 đến 15 và trong bộ đội.
Triệu chứng bệnh:
-         Nhiễm trùng khởi đầu phần nhiều không đột ngột, bệnh nhân thấy khó chịu, sợ gió, nhức đầu, đau trước tai. Sau đó một bên tuyến mang tai bắt đầu sưng, rồi 2 – 3 gnày hôm sau lan sang bên kia. Chõ sưng đau nhưng không tấy đỏ, da bóng lên, ấn không lún, không hoá mủ, họng hơi đỏ, lỗ ống Stenon hơi tấy lên.
-         Các tuyến nước bọt khác cũng có thể có viêm, nhưng ít khi đơn độc. Trong thơidf gian sốt có thể đến 40 độ. Phần nhiều lui bệnh sau 1 tuần.
-         Có thể có viêm tinh hoàn: phần nhièu hậu phát 5 dến 10 ngày sau k hi sưng tuyến mang tai, có thể tieen phát và riêng lẻ phải nghĩ đến bệnh quai bị để khỏi phải chẩn đoán sai. Biểu hiện là có sốt trở lại 39 – 40 dộ. Bệnh nhân trằn trọc, có khi mê sảng. Một bên tinh hoàn sưng to, đau, tấy đỏ lên, nếu cả hai bên bị sưng thì có thể gây vô sinh. Khỏi sau10ngày nhưng phải sau 2 tháng mới bíêt rõ có teo hay không. Phụ nữ có thể có viêm buồng trứng.
-         Có thể gặp viêm màng não, viêm não và tuỵ tạng nhưng phần lớn đều tự khỏi không để llại di chứng trong vài ngày.
-         Cần phân biệt với viêm tuyến hoá mủ do tạp khuẩn hay gặp trong bệnh thương hàn, nhọt ống tai, nổi hạch ở cổ, viêm xxương hàm, sỏi trong ống Stenon (hiếm)
-         Sau giai đoạn khỏi bệnh, hoặc tiêm văcxin thường cơ thể có miễn dịch kéo dài. Hiện nay người ta có thể dùng test da để phát hiện tình trạng có miễn dịch (đã từng mắc bệnh hay được tiêm phòng văcxin). Nếu test này âm tính chứng tỏ cơ thể thiếu hụt miễn dịch qua trung gian tế bào với virut quai bị do chưa được tiêm phòng hoặc đã tiêm phòng nhưng cơ thể chưa tạo được kháng thể để phòng chống virut.
Điều trị:
-         Nằm nghỉ trong suốt thời gian còn sốt và sưng để tránh gây tổn thương tuyến sinh dục.
-         Vệ sinh miệng bằng nước muối ấm, hoặc nước sát trùng miệng.
-         Có thể dùng thuốc giảm đau thông thường như paracetamon, an thần nhẹ. Không đắp cao dán, không chườm nước nóng.
-         Nếu có viêmtinh hoàn, nên nằm yên, mặc quần sịp cho bé để nâng hạ nang cho khỏi bị sa xuống, cho uống thuốc chống viêm giảm đau theo y lệnh của bác sĩ.
-         Nếu có viêm màng não nên điều trị tại bệnh viện.

Bé nhà bạn đã tiêm phòng vacxin quai bị, nếu bác sĩ đã loại trừ hiện nay bé không mắc quai bị thì có thể là viêm hạch cổ. Bạn hãy tin tưởng với chẩn đoán và tuân thủ phác đồ điều trị để đạt kết quả tốt, giúp bé mau bình phục.

 

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ lây lan thành dịch, đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Bệnh thường gặp vào mùa đông - xuân. Mầm bệnh quai bị là virus thuộc họ myxovirus. Nguồn lây bệnh quai bị là người đang mắc bệnh quai bị. Đường lây truyền bệnh là không khí qua đường hô hấp. Bệnh có một số biến chứng nguy hiểm.

 

Biểu hiện của bệnh quai bị
Bệnh quai bị gặp chủ yếu là viêm tuyến nước bọt (tuyến mang tai). Kể từ khi virus quai bị vào cơ thể cho đến khi có triệu chứng lâm sàng đầu tiên thời gian kéo dài khoảng từ vài ba tuần lễ. Giai đoạn này người ta gọi là thời kỳ nung bệnh. Bệnh xuất hiện sốt cao đột ngột, đau đầu, mệt mỏi toàn thân, ăn ngủ kém. Với các triệu chứng này ở giai đoạn tiên phát có thể nhầm với một số bệnh khác.
Sau khi sốt cao từ 1 đến 3 ngày thì tuyến nước bọt bị sưng to. Đầu tiên là sưng một bên, sau vài ngày tiếp tục sưng tuyến nước bọt còn lại. Đặc điểm của sưng tuyến nước bọt là sưng 2 bên thường không đối xứng (có nghĩa một bên sưng to, một bên nhỏ hơn). Tuyến nước bọt có khi sưng lên rất to làm cằm, cổ bạnh ra làm biến dạng cả mặt. Da vùng tuyến nước bọt sưng, căng, bóng, không đỏ, sờ vào vùng da đó thấy nóng và bệnh nhân kêu đau. Người ta thường quan sát 3 điểm đau điển hình của bệnh quai bị trong dấu hiệu viêm tuyến nước bọt là góc thái dương-hàm, điểm mỏm xương chũm và góc xương hàm dưới. Nhiều bệnh nhân vì đau mà gây nên khó nhai, khó nuốt. Triệu chứng sốt thường kéo dài trong vòng 10 ngày, sau khi hết sốt thì hiện tượng sưng tuyến nước bọt cũng giảm dần. Hậu quả của viêm tuyến nước bọt do virus quai bị là không bị hóa mủ (trừ khi có bội nhiễm thêm vi khuẩn khác), đây là một đặc điểm nên lưu ý trong chẩn đoán bệnh quai bị.
Các bộ phận có thể bị tổn thương
Virus quai bị có thể gây tổn thương nhiều cơ quan của cơ thể, nhưng bộ phận đánh lo ngại nhất của bệnh quai bị là gây viêm tinh hoàn cho nam giới. Viêm tinh hoàn do virus quai bị thường hay gặp nhất ở lứa tuổi đang dậy thì và cả lứa tuổi trưởng thành (thanh thiếu niên). Tỷ lệ bị viêm tinh hoàn còn tùy thuộc vào từng vụ dịch (tức là phụ thuộc vào độc lực của virus), tình trạng sức đề kháng của cơ thể. Có một số tác giả cho rằng khoảng từ 10 đến 30% có kèm theo viêm tinh hoàn. Đặc điểm của viêm tinh hoàn thường xảy ra một bên. Tỷ lệ viêm tinh hoàn 2 bên ít hơn. Sau khi viêm tuyến nước bọt từ 5 đến 7 ngày thì xuất hiện viêm tinh hoàn. Bệnh nhân thấy xuất hiện sốt trở lại, đôi khi nhiệt độ còn tăng hơn lúc ban đầu của viêm tuyến nước bọt. Tinh hoàn sưng to, đau. Sờ vào tinh hoàn thấy chắc. Da bìu bị phù nề rõ rệt, căng, bóng, đỏ.
Ngoài ra người ta còn thấy kèm theo có viêm mào, thừng tinh hoàn, thậm chí xuất hiện tràn dịch màng tinh hoàn trong những trường hợp bệnh nặng. Bệnh kéo dài từ 3-4 tuần lễ sau đó mới hết sưng, đau hẳn. Điều đáng lo ngại nhất của viêm tinh hoàn là có gây hậu quả teo tinh hoàn hay không? Muốn biết có bị teo tinh hoàn hay không phải theo dõi một thời gian dài khoảng vài tháng mới có thể biết chắc chắn. Cũng không nên lo lắng quá về bệnh của mình bởi vì tỷ lệ teo tinh hoàn do virus quai bị gây ra rất thấp, cũng chỉ khoảng 5%. Nếu teo tinh hoàn một bên thì mọi chức năng của tinh hoàn vẫn hoạt động bình thường, nhưng khi đã bị teo cả 2 bên tinh hoàn thì sẽ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sinh dục và sinh sản.
Ngoài biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới thì nữ giới khi bị quai bị cũng có thể bị viêm buồng trứng tuy rằng tỷ lệ thấp. Viêm tụy, viêm não, màng não cũng có thể gặp trong bệnh quai bị nhưng không nhiều. Mặc dù những bệnh này gặp trong viêm quai bị là thấp nhưng rất nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng.
Khi bị bệnh quai bị nên làm gì?
Khi nghi là bị bệnh quai bị nên đi khám bác sĩ để được chẩn đoán chính xác, từ đây sẽ được chỉ định điều trị và có những tư vấn rất quan trọng, trong đó bao gồm cho bản thân người bệnh và cả bảo vệ cho người lành có nguy cơ mắc bệnh quai bị.
Đối với thể bệnh viêm tuyến nước bọt đơn thuần cần vệ sinh họng, miệng hàng ngày như súc họng, miệng bằng các dung dịch sát khuẩn nhẹ có bán tại các quầy dược phẩm như axit boric 5%, nước muối sinh lý và một số dung dịch sát khuẩn khác. Hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm, sinh tố, uống nhiều nước vì sốt làm mất nước, điện giải. Cần nghỉ ngơi tại giường tránh tiếp xúc với những người có nguy cơ cao mắc bệnh quai bị như lứa tuổi thanh thiếu niên, tối thiểu 10 ngày.
Đối với thể bệnh có viêm tinh hoàn cần nghỉ ngơi tại giường khi tinh hoàn vẫn còn sưng, đau. Cần thiết mặc đồ lót để treo nhẹ tinh hoàn lên. Đối với thể bệnh có viêm tinh hoàn, buồng trứng, rất cần có ý kiến của bác sĩ. Những bệnh viêm tụy, viêm não, màng não cần phải vào bệnh viện để được khám và theo dõi một cách chặt chẽ. Mặc dù hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh quai bị, đó là một thách thức lớn cho các thầy thuốc lâm sàng, nhưng các thuốc dùng trong mục đích điều trị hỗ trợ cũng không thể coi thường.
Nguyên tắc phòng bệnh quai bị
Cần cách ly người bệnh ít nhất 10 ngày không tiếp xúc với đối tượng có nguy cơ cao như lứa tuổi thanh thiếu niên. Người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân cần đeo khẩu trang y tế đúng tiêu chuẩn để hạn chế đến mức tối đa virus lây sang người chăm sóc, từ đó lây cho người lành khác.
Đối với đối tượng có nguy cơ cao cần tiêm vacxin phòng bệnh. Đây là biện pháp có hữu hiệu nhất hiện nay để tạo cho cơ thể có đủ kháng thể đặc hiệu chống lại virus quai bị một cách chủ động, mỗi khi chúng xâm nhập vào cơ thể.

Người yêu em từng mắc bệnh quai bị và em rất lo lắng vì anh có thể bị vô sinh.

Chúng em yêu nhau được 2 năm và chuẩn bị kết hôn. Trong tình yêu cả hai đều rất hiểu và tôn trọng nhau. Ở bên anh em có cảm giác được bảo vệ và là nơi mình có thể trao yêu thương, gia đình anh cũng rất quý em.
Chỉ có một vấn đề khiến em băn khoăn đấy là anh đã bị quai bị khi còn nhỏ. Mà em nghe mọi người nói rằng những người bị quai bị sau này không có khả năng sinh con, em hoang mang quá. Dù yêu nhau mà không có con thì em rất buồn, làm sao để em biết được là anh có bị vô sinh không?
Trả lời:
Để bạn hiểu hơn về căn bệnh quai bị chúng tôi có thể nói qua rằng: Quai bị là bệnh nhiễm khuẩn do Myxo virus gây ra, bệnh chưa có thuốc đặc trị. Bệnh lây truyền qua nước bọt và nước tiểu của người bệnh và phổ biến ở quãng độ tuổi từ 3 - 14 tuổi, 5 - 9 tuổi và thanh niên 18 - 20 tuổi. Bệnh xuất hiện ở cả nam và nữ, tuy nhiên ở nam giới thường bị biến chứng nặng hơn.
 
Ở Việt Nam tuy bệnh quai bị đã giảm rất nhiều so với ngày xưa vì đã được tiêm phòng, nhưng vẫn còn khá nhiều người mắc bệnh quai bị. Nếu như theo điều bạn biết thì tất cả những chàng mắc bệnh quai bị đều vô sinh thì nguy hiểm quá. Nếu thế ở Việt Nam mình có rất nhiều người không thể sinh con.
Bạn phải biết rằng, dù kể cả con trai và con gái khi bị quai bị được chữa trị kịp thời, có biện pháp kiêng khem cẩn thận thì tỷ lệ biến chứng gần như không có, như vậy thì họ vẫn có khả năng sinh sản bình thường.
Còn nếu coi thường không được phát hiện và điều trị kịp thời bệnh quai bị có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, đái tháo đường do viêm tụy kéo dài đặc biệt có thể gây vô sinh đối với bé trai sau này do viêm tinh hoàn...
Bạn muốn biết chồng tương lai của mình có còn khả năng sinh sản hay không thì chỉ có một cách duy nhất là đi kiểm tra tinh dịch. Bằng biện pháp phân tích tinh dịch đồ các bác sĩ sẽ cho bạn kết luận chính xác nhất. Bạn hãy nói khéo để bạn trai không tự ái, hãy coi đây là cuộc kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân, chứ đừng chỉ quan tâm đến vấn đề người đàn ông có vô sinh hay không.
Cả hai bạn nên đi kiểm tra sức khỏe vì hiện tại bây giờ có khá nhiều các bạn trẻ đi kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân để đảm bảo cho cuộc sống tương lai được tốt hơn, thậm chí có những biện pháp can thiệp kịp thời cho cả hai nếu mắc phải những vấn đề về sức khỏe.

Tại BV Bệnh Nhiệt đới TƯ, từ đầu năm đến nay đã có 40 ca phải nhập viện điều trị vì quai bị, trong đó một nửa có biến chứng viêm tinh hoàn.


Tư vấn tiêm vắc-xin phòng bệnh tại Phòng tiêm chủng BV Bệnh  Nhiệt đới T.Ư.Ảnh: H.Hải




Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Đối với phụ nữ, khi bị bệnh quai bị nếu kiêng khem không đúng cách cũng có thể gây biến chứng đến cơ quan sinh sản như viêm buồng trứng.

Viêm buồng trứng vì điều trị bệnh quai bị không đúng cách
 Tuy quai bị là bệnh lành tính nhưng di chứng để lại có thể rất lớn. Đối với nam giới quai bị có thể gây biến chứng viêm tinh hoàn dẫn đến vô sinh nam. Phụ nữ bị quai bị điều trị không đúng cách cũng ảnh hưởng rất lớn đến cơ quan sinh sản, điển hình là viêm buồng trứng.
Mặc dù tỷ lệ viêm buồng trứng ở nữ giới xảy ra thấp hơn tỷ lệ viêm tinh hoàn ở nam giới nhưng không có nghĩa là nữ giới tránh được biến chứng quai bị.
Cưới chồng chưa bao lâu, chị Bảo Trân ở Phú Xuyên, Hà Nội mắc quai bị đúng vào mùa thu hoạch lúa. Dâu mới về nhà chồng, mặc dù bị bệnh nhưng chị không dám nghỉ ngơi nhiều. Chỉ nằm nghỉ được vài ba hôm, chị lại làm việc như bình thường mà không cho ai biết mình bị quai bị. 
Mấy ngày sau chị có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai bên phải sưng to dần. Vùng sưng nhanh chóng lan đến má, dưới hàm kèm theo cảm giác đau ở vùng tuyến bị sưng. 
Đắp lá thuốc hàng tuần nhưng bệnh không giảm mà có dấu hiệu nặng hơn. Cuối cùng chị phải nhập viện, điều trị khỏi quai bị bác sĩ phát hiện chị bị viêm buồng trứng cần sớm điều trị.
Ảnh minh họa
Tương tự, chị Thanh Thảo Từ Sơn, Bắc Ninh lấy chồng 2 năm nay vẫn chưa có con, đi khám bác sĩ cho biết chị bị suy buồng trứng dẫn đến việc khó thụ thai.
Trước khi làm đám cưới hai vợ chồng đã đưa nhau đi khám sức khỏe sinh sản tiền hôn nhân. Hai vợ chồng vui mừng khi nhận kết quả cả hai đều bình thường, cưới xong sẽ tính chuyện sinh con luôn.
Tuy nhiên, cưới chưa bao lâu chị Thảo lây bệnh quai bị từ em trai trong một lần về thăm em bệnh. Một phần vì cho rằng bệnh chỉ nguy hiểm với nam giới chứ phụ nữ thì không vấn đề gì, phần nữa do việc nhiều sợ ùn đống đến lúc xử lý không xuể chị vẫn “đội” mưa, gió đi làm. Hậu quả là chị phải vào viện điều trị hơn 1 tuần.
Cho tới bây giờ, khi không thể thụ thai, đi khám chị mới biết mình bị suy buồng trứng.
Không nên chủ quan với quai bị
Bệnh quai bị có thể xảy ra ở mọi người vào mùa bất kỳ mùa nào trong năm. Quai bị tuy là bệnh lành tính nhưng để lại nhiều di chứng đáng sợ, nguy hiểm nhất là viêm tinh hoàn ở nam giới dẫn đến vô sinh. Như vậy không có nghĩa là phái nữ không ảnh hưởng gì, biến chứng quai bị có thể xảy ra ở bất kỳ người nào.
Theo bác sĩ Nguyễn Hoài Bắc, Bệnh viện Việt Đức, bệnh quai bị không ngoại trừ ai, từ trẻ em, người lớn, nam giới, phụ nữ, tuy nhiên độ tuổi mắc nhiều nhất từ 5-15 tuổi. Khi tiết trời vừa nóng, vừa ẩm, độ ẩm trong không khí cao là điều kiện phát tán các loại virus, mầm bệnh như quai bị.
Quai bị thực chất là bệnh viêm tuyến mang tai do virus gây ra. Bệnh lây truyền trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên. Khi virus xâm nhập vào cơ thể virus phát triển nhân lên trong biểu mô đường hô hấp trên và các tổ chức hạch bạch huyết vùng cổ. Sau đó virus an tràn theo đường máu đến các cơ quan khác trong cơ thể.
Triệu chứng ban đầu thường là sốt, mệt mỏi, đau đầu, sưng và đau một hoặc nhiều tuyến nước bọt. Bệnh tuy lành tính những cũng có khả năng gây nhiều biến chứng như: Viêm tụy, viêm thần kinh, viêm cơ tim, viêm buồng trứng, viêm tinh hoàn.
Với chị em phụ nữ, khi bị quai bị không kiêng khem, điều trị không đúng cách cũng có thể gây biến chứng đến các cơ quan sinh sản như viêm buồng trứng. Mặc dù, tỷ lệ viêm buồng trứng ở nữ giới xảy ra thấp hơn tỷ lệ viêm tinh hoàn ở nam giới nhưng không có nghĩa là hiếm gặp.
Tuy nhiên, bác sĩ Bắc khuyên, đối với phụ nữ khi phát hiện các triệu chứng quai bị nên có chế độ kiêng kem và điều trị hợp lý. Trước khi lên kế hoạch mang bầu, tốt nhất chị em nên tiêm phòng quai bị. Không nên đến khi mang thai mới tiêm phòng quai bị, tránh mang thai ít nhất một tháng sau khi tiêm phòng chứng bệnh này.

 

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân, hè, tuy nhiên bệnh có thể xảy ra quanh năm kể cả vào mùa thu, đông. Bệnh thường phát triển thành dịch ở những tập thể đông đúc như nhà trẻ, trường học.



Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân
Đây là một bệnh nhẹ nhưng nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, đặc biệt nguy hiểm nhất là viêm sưng tinh hoàn, thường là một bên, xảy ra từ 20 - 30% ở nam giới trưởng thành.
Nguyên nhân
Quai bị do virus gây nên, rất dễ lây qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ, cả trẻ lớn chưa được tiêm phòng quai bị và lứa tuổi vị thành niên chưa có miễn dịch quai bị, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ là thấp hơn. Thời gian lây là từ 6 ngày trước khi toàn phát và đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.
Triệu chứng
Khi bị nhiễm virus quai bị, phần lớn bệnh nhân thấy khó chịu từ 1 - 2 ngày trước khi các triệu chứng xuất hiện. Bệnh nhân bị sốt cao (39 – 400C) trong 3 - 4 ngày, chảy nước bọt, sưng vùng mang tai, dấu hiệu dễ nhận biết nhất là má sưng to, có thể sưng một bên mặt rồi lan sang bên kia hoặc sưng hai bên cùng một lúc. Tuy nhiên, có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị mà không có triệu chứng bệnh lý, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không biết. Bệnh thường tự khỏi sau 1 tuần đến 10 ngày. Sau đó, bệnh nhân được miễn dịch suốt đời.
Bệnh quai bị ở người lớn thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể có các biến chứng như: viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn, nhồi máu phổi, viêm buồng trứng, viêm tụy; tổn thương thần kinh; đặc biệt bệnh quai bị ở phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.
Phòng và điều trị
Đây là bệnh do virus gây ra nên chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, các trường hợp mắc bệnh phải được nghỉ ngơi tại chỗ; ăn thức ăn mềm, dễ nuốt. Khi bị mắc bệnh, người bệnh cần vệ sinh răng miệng thường xuyên; cần được cách ly trong khoảng 2 tuần kể từ khi có triệu chứng sưng ở mang tai. Trẻ em bị bệnh không được đến trường, vì như vậy sẽ là nguồn lây bệnh cho các trẻ khác. Người lớn mắc bệnh cũng cần được cách ly như trẻ nhỏ tại phòng riêng. Các đồ vật có liên quan đến chất tiết mũi, họng cần phải được diệt khuẩn tốt. Có thể giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng Paracetamol. Trường hợp viêm tinh hoàn, chú ý mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau; nghỉ ngơi là chủ yếu, hạn chế vận động. Trường hợp bệnh nhân đã giảm sốt mà sốt trở lại hoặc đau vùng bụng dưới cần đưa đến cơ sở y tế để khám và điều trị tránh biến chứng nặng hơn.
Để phòng bệnh, ngoài các biện pháp cách ly với người bệnh thì phương pháp tiêm phòng là tốt nhất. Hơn 95% những người được tiêm chủng được miễn dịch rất lâu, có thể suốt đời. Vaccine có thể tiêm bất kỳ lúc nào từ 12 tháng tuổi trở lên. Trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa có tiền sử mắc quai bị và chưa được tiêm chủng theo lịch phòng bệnh quai bị thì nên tiêm chủng để có thể phòng bệnh tốt nhất cho bản thân và con mình.

Bệnh quai bị là một loại bệnh dễ mắc, dễ lây lan, đặc biệt là ở trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên.Bên cạnh triệu chứng điển hình là viêm tuyến mang tai thì bệnh có thể còn gây ra các biến chứng như tổn thương thần kinh, nhồi máu phổi, viêm buồng trứng, viêm tụy và đặc biệt là ở nam giới bệnh quai bị dễ gây ra viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn – đây là nguyên nhân phổ biến gây vô sinh hiếm muộn ở nam giới. 

 

Cơ chế gây bệnh
Bệnh có trên toàn thế giới và chỉ xuất hiện ở người. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ và lứa tuổi vị thành niên, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ là thấp hơn. Bệnh do virus lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù virus quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần. Khi bị nhiễm bệnh, virus nhân lên trong khoang tỵ hầu và hạch bạch huyết. Virus tăng cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau nhiễm và lan ra các cơ quan khác. Thời gian lây là từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý. Khi đã mắc bệnh hoặc đã được chủng ngừa, hầu hết sẽ miễn dịch đối với bệnh quai bị.
Biểu hiện của bệnh
Biểu hiện rõ nhất của bệnh là sốt và sưng một hoặc cả hai bên tuyến mang tai. Ngoài tuyến mang tai, một số cơ quan khác cũng có thể bị viêm đồng thời như tuyến nước bọt, màng não, tuyến sinh dục (tinh hoàn hoặc buồng trứng).
Ảnh hưởng của quai bị đến khả năng sinh sản của nam giới
Viêm tinh hoàn là biến chứng thường gặp của bệnh quai bị ở nam giới sau tuổi dậy thì. Tỉ lệ có biến chứng viêm tinh hoàn có thể từ 20-35%. Khi bị viêm, tinh hoàn đau và sưng to, thường kèm với sốt. Sau đó, quá trình teo tinh hoàn sẽ diễn tiến từ khoảng 50% những bệnh nhân này. Trong những trường hợp còn lại, quá trình sinh tinh có thể trở về bình thường. Viêm buồng trứng ở phụ nữ bị quai bị rất hiếm gặp và ít ảnh hưởng đến khả năng sinh sản.
Quá trình teo tinh hoàn sẽ diễn tiến trong vòng 1-6 tháng sau đợt viêm cấp tính. Quá trình sinh tinh sẽ giảm dần và có thể mất hẳn. Teo mô tinh hoàn có thể do tác động trực tiếp của virus hoặc thứ phát do thiếu máu cục bộ trong quá trình mô bị viêm, phù. Nếu bị viêm cả hai bên tinh hoàn (khoảng 15%), sẽ dẫn đến vô sinh hoàn toàn.
Tóm lại, nam giới sau tuổi dậy thì khi bị quai bị cần chú ý đến biến chứng viêm tinh hoàn. Quai bị có kèm viêm tinh hoàn có nhiều khả năng sẽ dẫn đến vô sinh, đặc biệt nếu viêm cả 2 tinh hoàn. Vì quá trình teo tinh hoàn sẽ diễn tiến từ từ sau đợt viêm cấp tính, để duy trì khả năng sinh sản, có thể đến các trung tâm điều trị vô sinh để xin trữ lạnh tinh trùng khi chất lượng tinh trùng chưa giảm nhiều. Lưu trữ tinh trùng dự phòng trong những trường hợp quai bị nên được thực hiện ở thanh niên chưa lập gia đình hoặc chưa có con.
Phòng chống biến chứng khi mắc quai bị
Trẻ nhỏ khi được 1 tuổi nên được tiêm vacxin phòng quai bị. Người bị bệnh quai bị tốt nhất nên vào viện khám và điều trị, nên cách ly với mọi người xung quanh, nhất là những bé trai chưa bị quai bị lần nào thì không nên tiếp xúc với người bị quai bị.
Khi bị mắc bệnh quai bị nên cách ly bệnh nhân 2 tuần kể từ lúc phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn những thực phẩm dễ tiêu hoá, giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng paracetamol.
Trường hợp viêm tinh hoàn: Mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau, nghỉ ngơi là chủ yếu, hạn chế vận động.
Bác sỹ có thể chỉ định cho bạn dùng corticoid đúng liều, quan trọng nhất là dùng liều lớn khi khởi đầu (60mg Prednisolon), sau đó giảm dần trong 7-10 ngày. Phẫu thuật giải áp khi tinh hoàn bị chèn ép nhiều.

Quai bị do virus paramyxovirus gây nên. Bệnh quai bị (còn được gọi là bệnh viêm tuyến mang tai dịch tễ hay viêm tuyến mang tai do virus quai bị) là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp bằng đường hô hấp, hay gây thành dịch trong trẻ em, thanh thiếu niên do virus quai bị gây nên.

  Biểu hiện lâm sàng phổi biến nhất là viêm tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Bệnh tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới và có thể dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sống.Các tuyến nước bọt khác, tụy và hệ thần kinh trung ương cũng có thể bị tổn thương.Là một bệnh truyền nhiễm, thường xẩy ra vào mùa đông – xuân. Lây trực tiếp khi gần bệnh nhân nói, ho hoặc hắt hơi. Còn gọi là Lưu Hành Tính Tai Tuyến Viêm, Trá Tai, Trư Đầu Phì, Tuyến Mang Tai Viêm, Trá Tai, Hà Mô Ôn. Thường gặp ở trẻ nhỏ 5~8 tuổi.
I.  NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH QUAI BỊ:
Bệnh có trên toàn thế giới và chỉ xuất hiện ở người. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ và lứa tuổi vị thành niên, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ là thấp hơn. Bệnh do virus lây truyền qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù virus quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần. Khi bị nhiễm bệnh, virus nhân lên trong khoang tỵ hầu và hạch bạch huyết. Virus tăng cao trong huyết thanh khoảng 12-15 ngày sau nhiễm và lan ra các cơ quan khác. Thời gian lây là từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.
II.  ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG:
Hình ảnh mô phỏng tuyến nước bọt bị viêm.
Bệnh có đặc điểm dịch tễ rõ ràng, thường phát vào mùa xuân, nhất là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, trong các môi trường tập thể như trường học, nhà trẻ. Tuổi nào cũng có thể bị bệnh quai bị, khả năng mắc bệnh ở nam cao hơn nữ. Tuy nhiên ít gặp quai bị ở trẻ dưới 2 tuổi mặc dù trẻ chỉ được bảo vệ trong 6 tháng đầu nếu mẹ đã từng mắc bệnh quai bị. Sau 2 tuổi, tần suất bệnh tăng dần, đạt đỉnh cao ở lứa tuổi 10-19. Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14-24 ngày, người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng dần trong khoảng 1 tuần. Tuyến mang tai có thể sưng 1 bên hay 2 bên. Nếu sưng cả 2 bên thì 2 tuyến có thể không sưng cùng lúc, tuyến 2 bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm sưng. Vùng sưng thường lan đến má, dưới hàm, đẩy tai lên trên và ra ngoài; có khi lan đến ngực gây phù trước xương ức. Bệnh nhân có cảm giác đau ở vùng tuyến bị sưng nhưng da trên vùng sưng không nóng và không sung huyết, ngược với những trường hợp viêm tuyến mang tai do vi khuẩn. Lỗ ống Stenon ở niêm mạc má 2 bên sưng đỏ, có khi có giả mạc. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày. Tuy nhiên có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị mà không có dấu hiệu bệnh lý rõ rệt, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không nhận biết. Bệnh quai bị gây miễn dịch bền vững khi đã mắc bệnh dù sưng 1 hay 2 bên tuyến mang tai nên ít khi bị quai bị lần 2.
III.  BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH QUAI BỊ:
Bệnh quai bị ở người lớn tuy ít gặp, nhưng thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Có thể gặp các biến chứng sau:
Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn:  Biến chứng này có tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì mắc bệnh quai bị, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời. Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thường. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 50% số trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng và vô sinh.
Nhồi máu phổi: Là tình trạng một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến.
Viêm buồng trứng: Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh .
Viêm tụy: Có tỷ lệ 3% - 7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.
Các tổn thương thần kinh: Viêm não có tỷ lệ 0,5%, bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy. Tổn thương thần kinh sọ não dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm tủy sống cắt ngang, viêm đa rễ thần kinh.
Bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng, trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu.
Một số biến chứng khác: Viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu. Vì viêm tuyến mang tai còn có thể gây ra do các virus khác (Coxackie, Influenza), do vi trùng (Staphylococcus aureus), do tắc ống dẫn tuyến nước bọt vì sỏi và viêm tinh hoàn còn có thể do lao, Leptospirose, lậu nên trong một số trường hợp khó chẩn đoán, bệnh nhân cần thực hiện một số xét nghiệm như: Phân lập virus từ máu dịch họng, dịch tiết từ ống Stenon, nước tiểu hay dịch não tủy. Các phản ứng huyết thanh học: Test ELISA, miễn dịch huỳnh quang, trung hoà bổ thể.
IV.  PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH QUAI BỊ:
\Đối với mọi bệnh nhân: Cách ly bệnh nhân 2 tuần kể từ lúc phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn những thực phẩm dễ tiêu hoá, giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng paracetamol. Trường hợp viêm tinh hoàn:  Mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau, nghỉ ngơi là chủ yếu, hạn chế vận động.
Dùng corticoid đúng liều, quan trọng nhất là dùng liều lớn khi khởi đầu (60mg Prednisolon), sau đó giảm dần trong 7-10 ngày. Phẫu thuật giải áp khi tinh hoàn bị chèn ép nhiều.
Vaccin phòng bệnh quai bị có tác dụng kích thích cho trẻ em sản sinh kháng thể kháng quai bị kháng thể đạt mức độ cao nhất sau khi tiêm chủng 6 – 7 tuần.  Số lần tiêm: Nếu bắt đầu tiêm từ 9 tháng tuổi: tiêm 3 lần, lần 1 lúc 9 tháng tuổi, lần 2 sau lần 1 sáu tháng, lần 3 khi trẻ từ 4-12 tuổi. Nếu bắt đầu tiêm từ 12 tháng tuổi: tiêm 2 lần, lần 1 lúc 12 tháng tuổi lần 2 từ 4-12 tuổi. Tiêm chủng khẩn cấp được chỉ định cho trẻ từ 12 tháng tuổi, trẻ vị thành niên và người lớn nếu đã có tiếp xúc với bệnh nhân quai bị nhưng chưa có tiền sử mắc quai bị và chưa được tiêm chủng theo lịch phòng bệnh quai bị. Trong trường hợp không có chống chỉ định, vaccin cần được tiêm không muộn hơn 72 giờ kể từ khi có tiếp xúc với bệnh nhân.
Phòng bệnh quai bị thụ động với globulin miễn dịch, dùng cho người tiếp xúc với virus quai bị mà chưa được tiêm vaccin trước đó.
V. SỬ DỤNG  VÀ BẢO QUẢN VACCIN QUAI BỊ:
Phòng bệnh quai bị chủ động với vaccin, thường kết hợp với vaccin phòng sởi và rubella (Trimovax, MMR). Không nên tiêm vaccin cho trẻ dưới 1 tuổi (tuy nhiên nếu trẻ sống trong môi trường tập thể, có thể tiêm phòng từ 9 tháng tuổi), phụ nữ có thai, người bị dị ứng với vaccin, người đang dùng thuốc gây giảm miễn dịch (corticoid, thuốc điều trị ung thư), người đang điều trị bằng tia phóng xạ.
- Các trường hợp dị ứng nặng với Aminoglycozid (Gentamycin sunfat...), trứng gà. Tình trạng suy giảm miễn dịch tiên phát, bệnh ác tính về máu và khối u. Phản ứng mạnh (sốt hơn 40oC, phù nề, đường kính vết đỏ ở nơi tiêm vaccin lớn hơn 8cm) hoặc có các biến chứng trong lần tiêm chủng trước thì không được tiêm vaccin quai bị.
- Vaccin được bảo quản nơi kín, bảo đảm tránh ánh sáng tia mặt trời, tránh ẩm ướt, nấm, chuột bọ... ở nhiệt độ 4o - 8oC. Có thể bảo quản vaccin ở nhiệt độ dưới 0oC.
- Vận chuyển bằng mọi phương tiện với điều kiện bảo quản vaccin dưới  8oC.
 
1. Bệnh Quai bị là gì ?

Nguyên nhân triệu chứng cách chữa trị bệnh quai bị

Quai bị (tiếng Anh: Mumps) dân gian còn gọi là bệnh má chàm bàm là một bệnh toàn thân biểu hiện bằng sưng một hay nhiều tuyến nước bọt, thường gặp nhất là các tuyến mang tai.

 Khoảng 1/3 các trường hợp nhiễm bệnh không gây nên các triệu chứng sưng tuyến nước bọt rõ ràng trên lâm sàng. Trên 50% bệnh nhân mắc bệnh quai bị có hiện tượng tăng bạch cầu trong dịch não tủy. Một số bệnh nhân có biểu hiện viêm màng não rõ với các triệu chứng nhức đầu, nôn mửa, cứng cổ...Viêm tinh hoàn (orchitis) là một biến chứng khá thường gặp sau tuổi dậy thì nhưng biến chứng vô sinh thì không thường gặp như nhiều người vẫn lo ngại. Các biến chứng khác hiếm gặp hơn gồm viêm khớp, viêm tuyến giáp, viêm khớp xương hàm, viêm cầu thận, (glomerulonephritis), viêm cơ tim, xơ hóa nội tâm mạc, giảm tiểu cầu, thất điều tiểu não, viêm tủy cắt ngang, viêm đa dây thần kinh lan lên, viêm tụy cấp, viêm buồng trứng (oophoritis), và giảm thính lực.
2. Nguyên nhân gây nên bệnh quai bị
Quai bị gây nên do một loại virus ARN thuộc Rubulavirus trong họ Paramyxoviridae. Các nguyên nhân khác gây viêm tuyếm mang tai gồm virus vùi hạt cự bào (cytomegalovirus-CMV), virus á cúm type 1 và 3, virus cúm A (influenza A virus), coxsackievirus, virus ruột (enterovirus), virus gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immunodeficiency Virus-HIV), tụ cầu khuẩn, và các Mycobacterium không gây lao khác. Các nguyên nhân gây viêm tuyến mang tai hiếm gặp khác có thể kể: do ăn nhiều tinh bột, phản ứng thuốc (phenylbutazone, thiouracil, các thuốc chứa iốt) và các rối loạn chuyển hóa (như bệnh đái tháo đường, xơ gan và suy dinh dưỡng).có thể bị 2 lần.
3. Triệu chứng của bệnh quai bị
- Nhiễm trùng khởi đầu phần nhiều không đột ngột, bệnh nhân thấy khó chịu, sợ gió, nhức đầu, đau trước tai. Sau đó một bên tuyến mang tai bắt đầu sưng, rồi 2 – 3 gnày hôm sau lan sang bên kia. Chõ sưng đau nhưng không tấy đỏ, da bóng lên, ấn không lún, không hoá mủ, họng hơi đỏ, lỗ ống Stenon hơi tấy lên.
- Các tuyến nước bọt khác cũng có thể có viêm, nhưng ít khi đơn độc. Trong thời gian sốt có thể đến 40 độ. Phần nhiều lui bệnh sau 1 tuần.
- Có thể có viêm tinh hoàn: phần nhiều hậu phát 5 dến 10 ngày sau khi sưng tuyến mang tai, có thể tiến phát và riêng lẻ phải nghĩ đến bệnh quai bị để khỏi phải chẩn đoán sai. Biểu hiện là có sốt trở lại 39 – 40 dộ. Bệnh nhân trằn trọc, có khi mê sảng. Một bên tinh hoàn sưng to, đau, tấy đỏ lên, nếu cả hai bên bị sưng thì có thể gây vô sinh. Khỏi sau 10 ngày nhưng phải sau 2 tháng mới bíêt rõ có teo hay không. Phụ nữ có thể có viêm buồng trứng.
- Có thể gặp viêm màng não, viêm não và tuỵ tạng nhưng phần lớn đều tự khỏi không để llại di chứng trong vài ngày.
- Cần phân biệt với viêm tuyến hoá mủ do tạp khuẩn hay gặp trong bệnh thương hàn, nhọt ống tai, nổi hạch ở cổ, viêm xương hàm, sỏi trong ống Stenon (hiếm)
- Sau giai đoạn khỏi bệnh, hoặc tiêm văcxin thường cơ thể có miễn dịch kéo dài. Hiện nay người ta có thể dùng test da để phát hiện tình trạng có miễn dịch (đã từng mắc bệnh hay được tiêm phòng văcxin). Nếu test này âm tính chứng tỏ cơ thể thiếu hụt miễn dịch qua trung gian tế bào với virut quai bị do chưa được tiêm phòng hoặc đã tiêm phòng nhưng cơ thể chưa tạo được kháng thể để phòng chống virut.
4. Cách điều trị bệnh quai bị
Không có thuốc đặc trị, chủ yếu điều trị triệu chứng.
Thể viêm tuyến mang tai
- Súc miệng: Nước muối 0,9%, dung dịch Axit Boric 5%.
- Hạ sốt nếu sốt quá cao, giảm đau (Paracetamol), An thần nhẹ (seduxen,rotunda), dùng các vitaminB,C uống nước chanh, cam, ăn lỏng.
- Nằm nghỉ tại giường, hạn chế đi lại, trong thời gian còn sốt, còn sưng tuyến (thường là 7-8 ngày đầu). Cách ly tối thiểu 10 ngày.
Thể viêm tinh hoàn
- Nằm nghỉ tại giường khi còn sưng đau. Mặc si-lip để treo tinh hoàn.
- Giảm đau: Chườm đá, uống paracetamol 0,5´1 viên/lần, uống 2 đến3 lần /ngày (uống lúc no, cách 6 giờ uống 1 lần) dùng 3-4 ngày. Nếu đau tinh hoàn nặng dùng paracetamol không đỡ có thể dùng thêm codein với liều 30 mg-60mg/ngày cho người lớn (chỉ dùng 2-3 ngày) hoặc efferalgan-codein 1viên/lần x 2-3 lần/ngày
- Giảm viêm: Cortanxyl 20mg-30mg/ngày chia 2 lần uống lúc no, dùng 3-4 ngày. Sau khi tinh hoàn đỡ sưng đau có thể dùng vitamin E 400mg 1 viên/ngày từ 1-2 tháng để tăng sinh tinh trùng.
Dự phòng
- Cách ly 10-21 ngày nếu thấy cần (thường là 10 ngày).
- Đeo mạng khi tiếp xúc với bệnh nhân.
- Phụ nữ có thai bị bệnh nếu có điều kiện tiêm Globulin miễn dịch đặc hiệu, liều 0,3 mg/kg, dùng 1 liều tiêm bắp duy nhất.
- Vacxin sống giảm hoạt (thường kết hợp với các vacxin khác như sởi...).
- Liều 0,5 ml/tiêm dưới da một lần duy nhất phòng bệnh cho thanh, thiếu niên nhi đồng chưa có miễn dịch (đặc biệt cho người chỉ có một tinh hoàn, nghe kém). Vacxin cho miễn dịch tốt, không có tai biến. Bảo vệ được 3 năm đến 5 năm.
Design by Hao Tran -