Đây là bài
thuốc của bác sĩ Nguyễn Phú Lâm, Chủ tịch Hội Đông y huyện Mang Thít,
Vĩnh Long, điều trị cho những ca teo tinh hoàn do biến chứng quai bị.
Với bài thuốc này, nhiều trường hợp vô sinh nam đã có con, khi tinh trùng trở nên đầy đủ và khỏe mạnh.
Biến chứng viêm, teo tinh hoàn là một biến chừng thường gặp ở bé trai
tuổi dậy thì. Trong trường hợp này, khả năng sinh tinh của người bệnh có
thể bị kém, số lượng tinh trùng nhiều trường hợp bằng không.
Những bài thuốc
Theo Đông y, khi đàn ông mất khả năng hoặc khả năng sinh tinh yếu, thiếu
là do tạng thận hư yếu, bởi thận tàng tinh và sinh tinh.Thận vừa tàng
chứa tinh của ngũ tạng và tinh sinh dục Do vậy, bài thuốc phải giúp bổ
thận, tráng dương, sinh tinh. Danh y Hải Thượng Lãn Ông có nói: “
Người
thầy thuốc giỏi chữa bệnh không có con, về phía con trai thì nói là ở
chủ tinh, về phía gái nói chủ ở huyết. Bàn luận lập phương thuốc: phía
trai thì lấy bổ thận làm cốt, phía gái điều kinh làm đầu, lại tham khảo
thêm những thuyết bổ khí, hành khí, xét lại thật thấu suốt có thể thụ
thai được”.
Nhục thung dung có vị ngọt, mặn, tính ấm
Cụ thể bài thuốc chữa vô sinh nam:
Bài1: nhục thung dung 200g, thục địa 100g, huỳnh tinh 100g, kỷ
tử 50g, sinh địa 50g, dâm dương hoắc 50g, hắc táo nhân 40g, quy đầu 50g,
xuyên khung 30g, cam cúc hoa 30g, cốt toái bổ 40g, xuyên ngưu tất 40g,
xuyên tục đoạn 40g, nhân sâm 40g, hoàng kỳ 50g, phòng đảng sâm 50g, đỗ
trọng 50g, đơn sâm 40g, trần bì 20g, đại táo 30 quả, lộc giác giao 40g,
lộc nhung 20g.
Trong đó: thục địa, nhục thung dung, huỳnh tinh, kỷ tử: bổ thận sinh
tinh; lộc nhung, lộc giác giao: bổ tinh huyết; nhân sâm, đảng sâm, hoàng
kỳ, đan sâm: bổ khí, tăng cường sức khỏe; đương quy, xuyên khung: dưỡng
huyết; sinh địa, táo nhân: dưỡng huyết, an thần. Các vị thuốc khác có
tác dụng hỗ trợ bổ thận cường dương, sinh tinh huyết. Bài thuốc này còn
chữa bệnh rối loạn dương cương, liệt dương, yếu sinh lý rất hay. Thuốc
này dùng để ngâm rượu uống.
Bài 2: hoàng kỳ 400g, đương quy 240g, thạch hộc 240g, nhân sâm
200g, thỏ ty tử 200g, nhục thung dung 200g, mạch môn 160g, hoài sơn
160g, đỗ trọng 160g, sơn thù 160g, kỷ tử 160g, tỏa dương 160g, sa uyển
tật lê 160g, xuyên tục đoạn 120g, xuyên ba kích 120g, ngũ vị tử 80g, hồ
lô ba 640g, hồ đào nhục 480g, cật dê 12 cái, cật heo 12 cái.
Cật dê và cật heo hấp chín thái mỏng phơi thật khô, tất cả các vị đều
tán bột, dùng mật thắng thành châu làm hoàn mỗi hoàn 10g, ngày uống từ 3
- 4 hoàn.
Trong đó: hoàng kỳ, nhân sâm bổ khí tăng cường sinh lực; thỏ ty tử, nhục
thung dung, kỷ tử, tỏa dương, ba kích bổ thận cường dương sinh tinh;
thạch hộc, sơn thù, ngũ vị tử, hồ lô ba, hồ đào nhục, xuyên tục đoạn bổ
thận âm nuôi dưỡng tinh huyết; mạch môn, sa uyển tật lê dưỡng phế sinh
tân dịch.cật dê, cật heo kích thích sinh tinh.
Bài 3: hai bài trên uống chung với bài Cố bản thập bổ hoàn của
Hải Thượng Lãn Ông, thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, phục
linh 160g, ngưu tất 120g, đỗ trọng 120g, ngũ vị tử 48g, phụ tử 60g, nhục
quế 60g, lộc nhung 100g.
Bài thuốc này làm hoàn mềm uống chung với một trong hai bài thuốc trên thì bổ thận sinh tinh đạt hiệu quả rất cao.
Tôi dùng 3 bài thuốc trên chữa cho những cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn
nhiều năm, bị bệnh quai bị tinh hoàn teo 1 bên hay là tinh hoàn không
teo nhỏ, tinh trùng rất ít, tiến tới bằng không, có trường hợp không có
tinh trùng đều có hiệu quả. Điển hình nổi tiếng nhất là cặp vợ chồng là
giáo viên ở xã Chánh Hội, huyện Mang Thít, Vĩnh Long cưới nhau 6 năm
không có con, chồng bệnh quai bị không có tinh trùng, sau khi uống thuốc
1 tháng đi xét nghiệm lại có tinh trùng, sau đó uống thêm gần 1 tháng
nữa vợ có thai và hiện nay bé gái sắp 1 tuổi rất xinh xắn và khỏe mạnh.
còn rất nhiều trường hợp bệnh quai bị tinh hoàn không teo hết, sau khi
uống thuốc từ 1 - 2 tháng đi xét nghiệm lại đều có tinh trùng.
Trong đó, một vài vị thuốc đáng lưu ý nhất có thể kể: nhục thung dung và
nhân sâm. Đây là 2 vị hầu như không thể thiếu trong vô sinh nam. Nhục
thung dung là vị thuốc đã được sử dụng trong Đông y từ 2.000 năm trước
và đã được đưa vào trong sách Thần Nông bản thảo, bộ sách thuốc cổ nhất
của Đông y học. Vị thuốc còn có những tên khác, như: địa tinh (nghĩa là
tinh chất của đất), kim duẩn (cây măng vàng), đại vân, hắc tư lệnh (vì
có tác dụng bổ thận mạnh). Theo Đông y, nhục thung dung có vị ngọt, mặn,
tính ấm; vào 2 kinh thận, đại tràng; có tác dụng bổ thận, ích tinh,
nhuận táo, hoạt tràng. Chủ trị nam giới liệt dương (dương nuy), nữ giới
không có thai, đới hạ (nhiều khí hư), băng lậu, lưng gối lạnh đau, cơ
bắp không có sức, huyết khô tiện bí (táo bón do huyết khô). Các kết quả
nghiên cứu hiện đại cho thấy, hàm lượng hoạt chất sinh học trong nhục
thung dung rất phong phú, có tác dụng như một loại hoóc-môn sinh dục,
có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận.
Trong khi đó, nhân sâm đại bổ nguyên khí, bổ tỳ ích phế, chỉ khát, an
thần, tăng trí. Chủ trị các chứng tỳ khí, phế khí hư nhược, tân dịch tổn
thương, chứng tiêu khát, khí huyết hư suy, thần chí rối loạn, dương
nuy…
Một số điều cần lưu ý
Qua kinh nghiệm lâm sàng cho thấy, người bệnh dùng thuốc cần tuân thủ những điều sau:
- Uống thuốc điều độ theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Thông thường thuốc có
tác dụng sau nửa liệu trình, khoảng 1 tháng, nhưng nên kiên trì dùng hết
thang thuốc rượu thì kết quả sẽ tốt hơn vì chất lượng tinh trùng tốt
hơn.
- Trong thời gian chữa bệnh cần sống điều độ, hạn chế tối đa việc uống
rượu bia, hút thuốc lá, nếu được bỏ hẳn. Hạn chế sử dụng thuốc kháng
sinh.
Nếu có điều kiện nên đi làm lại tinh dịch đồ để thấy hiệu quả của việc
uống thuốc như thế nào, số lượng có tăng không, độ di động như thế nào…